Phương thức bồi thường Chế định trách nhiệm dân sự (Luật Hồng Đức)

Bồi thường thiệt hại dựa trên thiệt hại thực tế gây ra về vật chất và tinh thần. Xác định thiệt hại đồng thời xác định phương thức bồi thường khá quan trọng bởi thực tế không phải bao giờ bồi thường cũng được ấn định bằng một cách thức nhất định nào đó, mà phải căn cứ vào hoàn cảnh, điều kiện có liên quan. Các phương thức bồi thường rất đa dạng, phong phú và nhiều cung bậc.

Hiện vật, khôi phục

Khôi phục lại tình trạng bang đầu là trường hợp bù đắp triệt để nhất, thuyết phục nhất bởi lẻ gây thiệt hại là sự làm biến đổi đi tình trạng ban đầu của đối tượng tác động của hành vi gây thiệt hại. Điều 30 khái quát đối với hình thức bồi thường thiệt hại, hoàn trả vật từ khế ước[18] "về việc hoàn lại các vật mua bán, tiền làm văn tự tính một phần mười giá của vật lấy lại được".

Điều 382 xử phạt người bán trộm ruộng đất của người khác, phải trả lại tình trạng ban đầu "Bán ruộng đất của người khác thì trả tiền mua cho người mua và phải trả thêm một lần tiền mua nữa, để trả cho người chủ có ruộng đất và người mua một người một phần nữa, ruộng đất thì phải trả cho người chủ có…".

Điều luật trên cho thấy không chỉ người gây thiệt hại phải hoàn trả lại, khôi phục lại tình trạng như ban đầu mà thậm chí còn phải chịu bồi thường nặng gấp đôi thiệt hại gây ra. Tính trừng phạt của nhà nước trong trường hợp này là rất nghiêm khắc và cần thiết.

Điều 386 dự liệu trường hợp nô tỳ bán trộm ruộng đất của chủ bên cạnh trách nhiệm hình sự còn buộc nô tỳ phải trả lại ruộng đất cho chủ và tiền mua cho người mua.[19] Cụ thể: "Nô tỳ mà bán trộm ruộng đất của chủ, thì xử phạt 90 trượng và thích vào mặt sáu chữ, lưu đi châu gần, ruộng đất phải trả lại cho chủ và tiền mua trả lại cho người mua".

Bộ luật dân sự hiện đại quy định về bồi thường thiệt hại khá cụ thể và rõ ràng:[20]

1.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.3. Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại.

Tiền

Điều 353 quy định trường hợp khai man ruộng đất công hoặc của người khác thành của riêng mình thì xử biếm và trả lại ruộng đất cho chủ cũ "nếu những ruộng đất không vào sổ công, dân chiếm ở đã lâu, mà khai gian là của riêng mình, hay là đem nhũng văn khế và dấu vết đã lâu đời ra mà cố tranh thì phải biếm hai tư. Đem ruộng đất của người khác mà khai vào sổ là cửa mình, thì phải biếm ba tư và trả lại ruộng đất cho chủ cũ".

Điều 355 quy định trường hợp hà hiếp, ức hại để mua ruộng của người khác thì cũng phải chịu biếm và cho phép lấy lại tiền mua: "Người nào ức hiếp để mua ruộng đất của người khác thì phải biếm hai tư và cho lây lại tiền mua".

Chịu hình phạt nặng hơn là trường hợp là trường hợp tá điền cấy nhờ ruộng đất của người khác nhưng sau đó lại tranh là ruộng của mình "những tá điền cấy nhờ ruộng của nhà người khác mà giở mặt tranh làm của mình thì phải phạt sáu mươi trượng, biếm hai tư nếu ngươi chủ ruộng đất có văn tự xuất trình thì người tá điền phải bồi thườg gấp đôi số tiền ruộng dất, không có văn tự thì trả nguyên tiền thôi".

Như vậy, trường hợp này người nào có lỗi lớn thì ngoài khoản bồi thường tương ứng còn phải chịu phạt bồi thường nhiều hơn so với thiệt hại.

Phạt nghiêm

Điều 328 quy định cụ thể về trường hợp này: "Tiền bồi thường chia làm hai bậc: bồi thường hai lần (về tang vật của công) bồi thường một lần (về các tang vật của các tội vặt), tội nặng thì bồi thường thêm năm lần, chin lần (nếu cố ý tái phạm) cộng với nguyen trạng vật tịch thu vào nhau mà cùng phải tội, hay không có chủ, thì tịch thu vào nhà nước, còn thì trả lại co người chủ. Phần bồi thường trả lại cho người chủ chia làm mười phần, trả chủ tám phần, quan ty hai phần, hai phần này lại chia làm mười phần, hình quan[21] được sáu phần, ngục quan[22] được ba phần, nha lại binh được một phần".

Các quy định về bồi thường nhiều lần so với thiệt hại được các nhà làm luật dự liệu và dành những chế tài nghiêm khắc nhằm mục đích trừng phạt, nghiêm trị những kẻ xâm phạm đến các quan hệ xã hội được coi trọng đặc biệt là về vấn đề ruộng đất.

Điều 344 quy định về việc nhận bừa ruộng của người khác, theo đó hình phạt dân sự khi lấn giới hạn ruộng đất của người khác là "biếm một tư và phải bồi thường gấp đôi tiền hoa màu".

Điều 345 dự liệu trường hợp dấu số ruộng đất đầm ao của công (khi nộp thuế) từ một mấu trở lên thì xử tội biếm, từ mười mẫu trở lên thì xử tội đồ, năm mươi mẫu trở lên thì xử lưu và phải "bồi thường gấp ba lần tiền thuế nộp kho".

Ngoài ra các quy định khác được cho là có liên quan như: Điều 347 việc chia ruộng công cho dân địa phương và thu lại khi cần thiết theo quy định của triều đình, Điều 360 trường hợp ruộng đất đang có tranh chấp mà đánh người để gặt lúa má thì cũng bị xử phạt, Điều 365 tự tiện thích chữ vào mặt con cái người khác và bán dân đinh làm nô tỳ thì bị xử lý, Điều 445 về việc đánh trộm cá ở ao nhà người khác, Điều 448 ăn trộm văn tự cầm cố, Điều 453 bắt người bán làm nô tỳ và giết người cướp của Điều 463 về bọn gian phi xảo trá ở hương thôn

Hiện vật

Điều 360 quy định về "đương tranh kiện nhau về ruộng đất mà lại đánh người để gặt cướp lúa, thì phải phạt…bắt trả gấp đôi phần lúa cho người kia".

Điều 361 về "Cấy rẽ ruộng công hay tư, không báo cho chủ mà tự tiện đến gặt trước thì phạt 80 trượng và trả lại số lúa đã gặt".

Điều 362 quy định về khả năng các bên kiện nhau về ruộng đất mà chưa xử xong, đến khi lúa được gặt thì quan cho cắm nêu và cho người vẫn cày ruộng được tạm gặt, nếu người vẫn cày không đến hầu kiện thì phải bắt đến, nếu hai bên đều tự xưng là người cấy ruộng thì bắt gặt lúa đem chia một nửa đến khi xử xong nếu người gặt lúa là trái thì trả lúa cho người được kiện, nếu người tạm gặt lại được kiện thì cũng xử như vậy.

Đây là những quy định có kế thừa những tập quán xã hội cũ khi phương thức trao đổi hàng đổi hàng vẫn tồn tại phổ biến bên cạnh phương thức hàng – tiền hoặc tiền – hàng.